Là kênh cung cấp vốn độc quyền cho nền kinh tế Việt Nam vì vậy
tình hình kinh doanh của ngân hàng có tác động trực tiếp tới hoạt
động các doanh nghiệp.
Nợ xấu là một trong những vấn đề khó khăn nhất của hệ
thống ngân hàng hiện nay mà nhà nước cần giải quyết. Thông tín viên
Nhân Khánh tìm hiểu tình trạng nợ xấu diễn ra như thế nào trong
hệ thống ngân hàng và khả năng xử lý vấn đề này, mời quý vị
theo dõi.
Ước tính, nguồn vốn ngân hàng trong các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay chiếm hơn 70%. So với các nước trong khu vực, sự phụ
thuộc vào nguồn vốn ngân hàng của các doanh nghiệp là rất
lớn.
Định nghĩa nợ xấu ở Việt Nam
Theo một số nhà nghiên cứu, số nợ xấu trong ngân hàng có thể lên tới
hơn 14%. Tuy nhiên theo giải trình trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình nói số nợ xấu trên toàn hệ thống là
khoảng 10%, tương đương chừng 12 tỷ USD. Nhìn chung, số liệu về
tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn chưa thống nhất. Lý
do phát sinh sự chênh lệch về số liệu này, chúng tôi được Tiến
sỹ Lê Đạt Chí, Trưởng bộ môn Tài chính, Đại học Kinh tế TP.HCM, cho
biết như sau:
Định nghĩa ở Việt Nam khác với các chuẩn mực như là quy
định trong Basel II, Basel III (Hiệp ước quốc tế về Quản lý rủi
ro). Định nghĩa về nợ xấu ở Việt Nam được phân loại theo các
nhóm nợ, thường được tính trên cơ sở khả năng thanh toán của
con nợ, hay nói cách khác là của các khách hàng khi đi vay.
Nếu đến thời hạn mà khách hàng không có khả năng thanh toán
lãi và vốn gốc theo hợp đồng thì khoản vay đó được xếp vào
các nhóm nợ tương ứng. Tùy theo thời gian họ trì hoãn không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán.
Định nghĩa ở Việt Nam khác với các chuẩn mực như là quy định trong Hiệp ước quốc tế về Quản lý rủi ro. Định nghĩa về nợ xấu ở Việt Nam được phân loại theo các nhóm nợ, thường được tính trên cơ sở khả năng thanh toán của con nợ, hay nói cách khác là của các khách hàng khi đi vay
Tiến sỹ Lê Đạt Chí
Đây là một điểm khác biệt lớn. Trong khi đó, các tiêu
chuẩn đánh giá về xếp loại nợ ở một số các nền kinh tế
phát triển thì người ta đánh giá khả năng trả nợ của chủ thể
đi vay. Nếu chủ thể đi vay đó có khả năng trả trong tương lai
thì được xem là nợ tốt. Cho nên đây là điểm khác biệt lớn so
với quan điểm về nợ xấu ở Việt Nam, nợ xấu có nghĩa là con
nợ không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Ở Việt Nam không
đánh giá trên cơ sở là tài sản đảm bảo của con nợ và khả
năng trả nợ trong tương lai của con nợ.
Các tiêu chuẩn quốc tế về nợ xấu không được thừa nhận hoàn
toàn ở Việt Nam. Điều này dẫn đến tỷ lệ nợ xấu do các công
ty xếp hạng tín dụng quốc tế đưa ra cao hơn nhiều so với tỷ lệ
nợ xấu Việt Nam tự xác định. Về các nguyên nhân gây ra nợ
xấu, theo Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh
tế Trung ương là như sau:
Nợ xấu ở Việt Nam thì có nhiều nguyên nhân. Có những
nguyên nhân từ quản trị doanh nghiệp, có những nguyên nhân từ
biến động của thị trường kinh tế thế giới và của giảm sức
mua ở trong nước.
Cũng có nguyên nhân do lợi ích nhóm và các hành vi kinh
doanh thiếu minh bạch. Đấy là 3 nhóm nguyên nhân chủ yếu.
Ở một góc độ phân tích khác, Tiến sỹ Lê Đạt Chí có ý kiến về nguyên nhân dẫn đến nợ xấu ở Việt Nam là:
Bước đầu, trong các số liệu được công bố của Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì có 2 vấn đề. Một là nợ xấu
nằm ở các ngân hàng quốc doanh. Các ngân hàng này khi thực
hiện một số chủ trương lớn của nhà nước trong vấn đề phát
triển kinh tế xã hội thì họ đã cho vay nhiều vào một số
ngành nghề, lãnh vực mà nơi đó hầu như các thành phần kinh tế
nhà nước đang nắm chủ đạo và chi phối.
Cho nên mức nợ xấu đối với các ngân hàng quốc doanh sở
hữu nhà nước đang chiếm một tỷ trọng lớn hơn 50% trong tổng
lượng nợ xấu. Khi nền kinh tế thế giới hay Việt Nam có biến
cố, làm cho khả năng quản trị của các tài sản đầu tư kém
hiệu quả, và rơi vào tình trạng mất hoặc kém đi khả năng thanh
toán nợ.
các ngân hàng TMCP đều có những tập đoàn, những chuỗi doanh nghiệp ở đằng sau. Cho nên có khả năng là việc tài trợ từ hệ thống ngân hàng TMCP này cho các sân sau của họ vượt quá mức. Khi những doanh nghiệp sân sau này có biến cố thì dẫn đến họ không có khả năng trả nợ.
Nhóm thứ hai nợ xấu ở Việt Nam nằm ở khối các ngân hàng
thương mại cổ phần (TMCP). Đặc điểm của các ngân hàng TMCP là
bị chi phối bởi nhóm tư bản thân hữu hoặc các nhóm tư bản đang
thống trị. Chúng ta thấy rằng là những ông chủ của các ngân
hàng TMCP đều có những tập đoàn, những chuỗi doanh nghiệp ở
đằng sau.
Cho nên có khả năng là việc tài trợ từ hệ thống ngân
hàng TMCP này cho các sân sau của họ vượt quá mức. Khi những
doanh nghiệp sân sau này có biến cố thì dẫn đến họ không có
khả năng trả nợ. Hoặc là các tài sản đó được định giá quá
cao và bây giờ các tài sản đó bị sụt giảm giá trị. Cho nên
sau khi thanh tra lại thì người ta vẫn thấy rằng, các tài sản đảm bảo cho các khoản vay này sụt giảm giá trị dẫn đến nợ xấu của Việt Nam tăng cao.
Trách nhiệm của ngân hàng
Về nguyên tắc, nợ xấu cao thì lợi nhuận thấp. Tuy nhiên, trong thực
tế không hẳn như vậy. Theo công bố của hầu hết các ngân hàng thương
mại cổ phần, lợi nhuận quý 1 năm nay của đa số các ngân hàng này
thường ở mức hàng ngàn tỷ đồng. Vậy trách nhiệm của ngân
hàng nằm ở đâu trong việc để phát sinh nợ xấu. Theo Tiến sỹ Lê
Đăng Doanh, cụ thể là như sau:
Theo tôi thì ngân hàng lãnh ít nhất là 50% trách nhiệm
trong vấn đề nợ xấu này, trong nhiều trường hợp có lẽ là trên
50%. Tình trạng ngân hàng phải cấp tín dụng theo mệnh lệnh
của một ai đó, đối với các ngân hàng thuộc thành phần kinh tế
nhà nước là không ít. Chúng ta đều biết, là Vinashin đã nhận
được rất nhiều các khoản vay mà hồ sơ cũng như dự án hết sức
là sơ sài. Không có sự giải thích rõ ràng về hiệu quả, không
có quá trình thẩm định khách quan.v.v.
Theo tôi thì ngân hàng lãnh ít nhất là 50% trách nhiệm trong vấn đề nợ xấu này, trong nhiều trường hợp có lẽ là trên 50%. Tình trạng ngân hàng phải cấp tín dụng theo mệnh lệnh của một ai đó, đối với các ngân hàng thuộc thành phần kinh tế nhà nước là không ít.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh
Đối với các ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần thì có
những ngân hàng hoạt động tương đối tốt; tình trạng thiếu thẩm
định hoặc là lợi ích nhóm tương đối thấp. Tôi muốn đơn cử như
ngân hàng ACB là nơi tôi có ấn tượng tốt đẹp. Còn có không ít
những ngân hàng khác thì có các cổ đông lớn đã gây áp lực
và đã nhận được những khoản vay rất lớn, theo những điều kiện
ưu đãi để dành cho các dự án khá mạo hiểm; mà sau đó, các
dự án đầu tư đó cũng có trường hợp là không thành công và nợ
xấu đã phát sinh. Theo tôi, trong các trường hợp này thì lợi
ích nhóm và các quy trình thẩm định rõ ràng là có thiếu
sót.
Trong hệ thống ngân hàng cổ phần tại Việt Nam đang tồn tại một
hiện tượng sở hữu chéo phức tạp. Một cổ đông lớn, một nhóm đầu tư
sở hữu cổ phần ở nhiều ngân hàng; ngân hàng này sở hữu ngân hàng
kia... Tình trạng này dẫn đến các nguyên tắc, quy định tài
chính bị phá vỡ. Chẳng hạn, ngân hàng không được cho chính người
sở hữu vay vốn nhưng nhờ mạng lưới sở hữu chéo, hầu hết các ngân hàng
cổ phần đều cho chính chủ của mình vay.
Vấn đề xử lý nợ xấu liên quan trực tiếp đến các nhóm lợi ích.
Liệu với chức năng quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước, vấn nạn
này có giải quyết được dứt điểm hay không, hay đòi hỏi trách
nhiệm xử lý ở một cấp cao hơn, chẳng hạn là Chính phủ. Tiến
sỹ Lê Đăng Doanh có ý kiến như sau:
Tôi nghĩ rằng Ngân hàng Nhà nước có phần trách nhiệm
trong quá trình thẩm tra, trong quá trình quy định các chuẩn
mực về nợ xấu, trong quy trình đòi hỏi các báo cáo và thẩm
định các báo cáo đó. Nhưng trách nhiệm và vai trò cao hơn, rất
cần thiết là thuộc các thể chế chính trị.
Tôi nghĩ rằng Ngân hàng Nhà nước có phần trách nhiệm trong quá trình thẩm tra, trong quá trình quy định các chuẩn mực về nợ xấu, trong quy trình đòi hỏi các báo cáo và thẩm định các báo cáo đó. Nhưng trách nhiệm và vai trò cao hơn, rất cần thiết là thuộc các thể chế chính trị.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh
Việc ai đó dùng quyền lực của mình ra lệnh phải cung cấp
đất, phải cung cấp tín dụng cho những doanh nghiệp, cho những
dự án nhất định. Đấy là các khiếm khuyết của thể chế chính
trị, của thể chế kinh tế; trong đó quyền lực được sử dụng mà
không có sự giám sát và thiếu công khai, minh bạch.
Nếu bây giờ Quốc hội biết được đầy đủ rằng, những mệnh
lệnh đó đã được ra như thế nào và đã có những khoản tín
dụng đã được chuyển mà không có các thủ tục, không có sự
thẩm định, không có dự án một cách minh bạch thì chắc là
Quốc hội cũng sẽ phải lên tiếng. Tôi nghĩ rằng, vấn đề nợ
xấu sẽ đòi hỏi có một cuộc cải cách rất nghiêm túc, toàn
diện trong công cuộc đổi mới về kinh tế, về chính trị và xã
hội ở Việt Nam.
Việt Nam cần có nhiều bước đột phá mạnh về mặt chính
sách. Chẳng hạn, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước
làm chủ sở hữu nhưng nợ của doanh nghiệp nhà nước thì rốt cuộc lại do
người dân đóng thuế phải chịu. Do đó, giải quyết vấn đề nợ xấu
quả là rất phức tạp.
Nợ xấu ngăn cản dòng vốn từ ngân hàng chảy sang các doanh nghiệp.
Nếu không giải quyết được hiện tượng sở hữu chéo trong hệ
thống ngân hàng, sẽ phát sinh tình trạng dùng tiền ngân sách
giải quyết nợ xấu mà thực chất là dùng tiền thuế của dân đi
cứu trợ cho các nhóm lợi ích, các ông chủ ngân hàng.