Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

Loay hoay với tái cấu trúc kinh tế

http://sgtt.vn/Goc-nhin/163564/Loay-hoay-voi-tai-cau-truc-kinh-te.html


Thống nhất với nhận định đầu tư công đang là điểm nóng của nền kinh tế hiện nay, song các nhà khoa học, chuyên gia kinh tế tham dự hội thảo “Tái cấu trúc đầu tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước” tổ chức hôm qua (3.5) tại Hà Nội vẫn chưa đưa ra được giải pháp, kiến nghị có tính đột phá.
Đầu tư công: vòng xoáy nợ nần

Đầu tư công rất kém hiệu quả, thất thoát lên đến 20 – 30%, chi phí cao, như đường cao tốc TP.HCM – Trung Lương chưa sử dụng đã hỏng. 
 Theo TS Vũ Đình Ánh, suốt giai đoạn 1995 – 2011, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) trong tổng vốn đầu tư công liên tục chiếm tỷ trọng lớn nhất với trên 40%. Đặc biệt, những năm 2005 – 2009 và 2011, tỷ trọng này lên trên 50%, thậm chí trên 60%. Đầu tư công tăng tỷ lệ thuận với nợ công. Tính đến cuối năm 2011, nợ công chiếm 54,6% GDP, trong đó nợ Chính phủ là 43,6% GDP và nợ nước ngoài chiếm 41,5% GDP – tương đương 50 tỉ USD.


“So với mức độ nợ công chung của các nước mới nổi và đang phát triển thì nợ công của Việt Nam có quy mô lớn hơn và đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng do cả nguyên nhân thâm hụt ngân sách lẫn vay nợ để đầu tư”, ông Ánh nhận xét. Nếu theo chuẩn quốc tế thì thâm hụt NSNN đã tăng vọt từ dưới 10.000 tỉ đồng năm 2006 lên hơn gấp đôi vào năm 2007, hơn tám lần vào năm 2009 và có giảm nhẹ trong năm 2010 xuống còn 3,03% GDP.

Để bù đắp bội chi, Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Do số nợ vay được sử dụng vào những mục đích không sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải trông vào đợt phát hành mới – như một hình thức đảo nợ, đặc biệt là nợ vay trong nước. NSNN Việt Nam đang đứng trước vòng xoáy nợ nần với quy mô nợ Chính phủ ngày càng lớn. Theo tính toán của ông Ánh, Việt Nam dành khoảng 15% tổng chi NSNN (tương ứng 40.000 – 45.000 tỉ đồng giai đoạn 2006 – 2010) cho trả nợ và con số này tiếp tục gia tăng trong những năm tới do đến hạn trả nợ cũng như biến động tỷ giá hối đoái.

Tuy nhiên, khi so sánh mối quan hệ giữa đầu tư công – nợ công giai đoạn 2001 – 2011, ông Ánh đã chỉ ra kết quả đáng kinh ngạc là so với GDP (giá thực tế) thì đầu tư công có xu hướng giảm rõ rệt trong khi nợ công lại có xu hướng tăng mạnh và nợ nước ngoài cũng vậy. “Vậy thì một phần nợ công đã chuyển đi đâu, phải chăng là sang tiêu dùng chứ không hẳn cho đầu tư phát triển?”, ông Ánh đặt câu hỏi.
Khi so sánh mối quan hệ giữa đầu tư công – nợ công giai đoạn 2001 – 2011, TS Vũ Đình Ánh đã chỉ ra kết quả đáng kinh ngạc là so với GDP (giá thực tế) thì đầu tư công có xu hướng giảm rõ rệt trong khi nợ công lại có xu hướng tăng mạnh và nợ nước ngoài cũng vậy. “Vậy thì một phần nợ công đã chuyển đi đâu, phải chăng là sang tiêu dùng chứ không hẳn cho đầu tư phát triển?”, ông Ánh đặt câu hỏi.
Ông Ánh cũng chỉ ra rằng với cơ cấu chi thường xuyên chiếm trung bình 60 – 65% tổng chi NSNN, để tăng chi cho đầu tư phát triển, Việt Nam không có cách nào khác ngoài tăng quy mô của tổng thu NSNN – hiện xấp xỉ 30% GDP, một mức đã khá cao.


Giáo sư Nguyễn Văn Nam lo ngại, để tăng đầu tư công, hiện Chính phủ chỉ có thể thực hiện bằng hai cách: tăng thu NSNN, nghĩa là diệt doanh nghiệp, diệt sản xuất, diệt nền kinh tế; hoặc phải tăng vay nợ, nghĩa là thêm gánh nặng nợ nần. “Trong khi đó, với cách thức quản lý như hiện nay, nợ công của chúng ta chỉ ở mức 30% GDP đã đủ chết, đừng nói tới 50 – 60% GDP như hiện nay. Không thể dựa vào “nợ công vẫn ở ngưỡng an toàn” theo chuẩn của các nước để vung tay vay nợ, vung tay đầu tư, vung tay chi tiêu như hiện nay được. Muốn tăng đầu tư phát triển, buộc phải giảm chi tiêu ngân sách”, ông Nam nhấn mạnh.
Ba mũi nhọn là quá nhiều?

Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh phân tích: đầu tư công ở Việt Nam tập trung vào đầu tư cho kinh tế với tỷ trọng rất cao, xấp xỉ 75 – 76% trong khi tỷ lệ đầu tư vào các lĩnh vực xã hội lại thấp và có xu hướng giảm dần, từ mức 17,6% năm 2000 xuống còn 15,2% năm 2009, trong đó đầu tư cho khoa học, giáo dục và đào tạo giảm từ 8,5% xuống còn 5,1%. Theo ông Doanh, đầu tư công là sản phẩm của cơ chế xin cho, trong đó cả hai phía “xin” và “cho” đều có lợi ích chung và lợi ích nhóm, có cả hiện tượng “gửi dự án”. Hệ quả là đầu tư công rất kém hiệu quả, thất thoát lên đến 20 – 30%, chi phí cao, như đường cao tốc TP.HCM – Trung Lương chưa sử dụng đã hỏng, nhiều công trình đầu tư tiền tỉ không được sử dụng….

Để tái cơ cấu kinh tế, theo GS.TSKH Võ Đại Lược, viện Kinh tế và chính trị thế giới, cần phải thay đổi cả quan điểm về kinh tế – chính trị. Đại hội Đảng xác định kinh tế Nhà nước làm chủ đạo trong khi chỉ riêng lĩnh vực ngân hàng, năm ngân hàng thương mại nhà nước nắm cổ phần chi phối đã chiếm đến 70% thị phần ngân hàng. Tương tự là khối doanh nghiệp nhà nước. Ông Lược nói: “Những gì liên quan đến khái niệm “công”, “Nhà nước” hiện chiếm thị phần quá lớn. Chúng ta quyết tâm thay đổi, nhưng lại vẫn trên nền quan điểm cũ thì rất khó hiệu quả”.

Còn theo góc nhìn của phó chủ nhiệm uỷ ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Phúc, chương trình tái cơ cấu cả một nền kinh tế lại được giao cho từng bộ, ngành thực hiện đề án nên cuối cùng chỉ là những mảnh ghép rời rạc. Thực tế cũng đã cho thấy không có sự liên kết nào giữa các đề án tái cơ cấu theo ba mũi nhọn được ba cơ quan xây dựng là ngân hàng Nhà nước, bộ Tài chính và bộ Kế hoạch và đầu tư.

Trong khi đó, ông Đặng Xuân Thanh, phó viện trưởng viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, lại lo ngại về khả năng, hiệu quả thực hiện đề án tái cấu trúc nền kinh tế bởi mục tiêu đặt ra quá lớn khi nhắm tới 13 lĩnh vực với ba khâu đột phá, trong đó liên quan đến 11 tập đoàn kinh tế lớn, hơn 50 ngân hàng thương mại, 64 tỉnh, thành phố… Ông Thanh so sánh, chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện mười năm nay mà vẫn “chưa đâu vào đâu”; hay như việc tái cơ cấu tập đoàn Vinashin bốn năm nay vẫn dở dang.

Bài học thành công từ công cuộc đổi mới năm 1986 được ông Thanh dẫn lại: chúng ta khi đó bắt đầu từ khu vực nông nghiệp, bằng cách giải phóng sản xuất, giải phóng tư tưởng, từ đó tạo ra nguồn lực, sức mạnh để tái cơ cấu cả nền kinh tế. Do vậy, theo ông Thanh, chúng ta chỉ nên chọn ra một tập đoàn, hoặc một địa phương để thí điểm thực hiện tái cơ cấu, nhưng phải làm quyết liệt. “Có đột phá là đúng rồi nhưng có tới ba lĩnh vực đột phá là quá nhiều, sức đâu mà làm?”, ông Thanh đặt câu hỏi.

Thảo Nguyễn
.

“Quyền lực ngầm”

http://vn.news.yahoo.com/quy%E1%BB%81n-l%E1%BB%B1c-ng%E1%BA%A7m-023600381.html


Xen giữa phiên chất vấn Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình hôm qua, 21.8, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã phải nhắc nhở người đứng đầu ngành ngân hàng về các chức danh của một nhân vật thuộc dạng chóp bu trong giới tài phiệt ngân hàng vừa xộ khám: bầu Kiên.

>> Bé 1,5 tuổi bỏng nặng do ngã vào nồi cháo
>> Hố ga đã có nắp đậy

Nếu không có đơn gửi đến công an thì cái kiểu “kinh doanh trái phép” đầy quyền lực của bầu Kiên bao giờ mới được ngành ngân hàng phát hiện? 

Cụ thể, Thống đốc Bình có phân trần là các chức vụ “phó chủ tịch HĐQT ACB” rồi “hội đồng sáng lập” mà bầu Kiên đặt ra không có ý nghĩa gì cả, vai trò của bầu Kiên rất mờ nhạt trong các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) đang ồn ào trong chiến dịch tái cơ cấu các ngân hàng thương mại của Chính phủ. Thế nhưng Phó Chủ tịch Kim Ngân thì lại bảo các chức danh đó không có vai trò gì, không ý nghĩa gì sao NHNN lại cứ để điều đó tồn tại mãi, sao không ra tay xử lý dứt điểm ngay để dư luận đỡ hiểu nhầm?

Thực sự thì về lý, một thống đốc NHNN không thể đủ thì giờ quan tâm đến từng chức danh của từng cá nhân có vốn góp vào các NHTMCP nên nói ông Bình phải chịu trách nhiệm thì cũng là khiên cưỡng. Thế nhưng trong giới tài phiệt kinh doanh ngân hàng thì chỉ có 3 - 4 “ông bầu” nổi đình nổi đám, trong đó có bầu Kiên. Sự nổi đình nổi đám này không chỉ là các phát ngôn, hành động của bầu Kiên trong lĩnh vực đầu tư bóng đá mà nó hiển hiện ở ngay hoạt động của ba công ty đầu tư tài chính có đăng ký kinh doanh tại Hà Nội (trong đó có ít nhất hai công ty có tên liên quan đến ACB hoặc Á Châu) mà bầu Kiên giữ vị trí chủ tịch HĐQT.

Trong văn bản thông báo vắn tắt về quyết định khởi tố, bắt giam bầu Kiên, bộ Công an chỉ nói ngắn gọn là ông Kiên có dấu hiệu phạm tội “kinh doanh trái phép” trong việc sử dụng ba công ty con nói trên vào các thương vụ chuyển nhượng vốn… 

Trả lời chất vấn, Thống đốc có thừa nhận về sự yếu kém của hệ thống thanh tra, giám sát của NHNN. Mức độ yếu kém này cụ thể như thế nào, yếu về số lượng hay về chất lượng, không thấy Thống đốc báo cáo cụ thể song nhiều người tỏ ra rất ngạc nhiên về tuyên bố này. Bởi mới cách đây chưa đầy năm, những hành vi hết sức đơn lẻ giữa các cá nhân với nhau như việc thỏa thuận lãi suất, việc mua bán ngoại tệ lẻ hay việc vận chuyển vài ký vàng cũng bị phát giác, được Thống đốc yêu cầu trừng trị cực kỳ nghiêm khắc, thì việc bầu Kiên dùng các chức danh “không có ý nghĩa” để hoạt động trong giới ngân hàng lẽ nào NHNN lại chẳng hay?

Vụ bắt giữ bầu Kiên được bắt đầu từ lá đơn tố giác gửi đến bộ Công an. Nếu không có đơn như thế gửi đến công an thì cái kiểu “kinh doanh trái phép” đầy quyền lực của bầu Kiên bao giờ mới được ngành ngân hàng phát hiện?

Thep Pháp Luật TP.HCM

Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2012

Tại sao giới đầu tư chán Việt Nam?

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2012/08/120802_vn_less_investment.shtml


Con số thống kê Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam vừa công bố cho thấy đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) vào nước này trong bảy tháng đầu năm chỉ ở mức 8,03 tỷ đô la, bằng 66,9% so với cùng kì năm 2011.

Thị trường Việt Nam
Việt Nam đang lộ yếu kém về đầu tư, công nghệ và quản trị
Sự suy giảm từ 19,9 tỷ đôla năm 2010 xuống con số đáng thất vọng như vừa nêu trong lúc FDI toàn cầu tăng từ 1,24 đến 1,6 ngàn tỷ trong cùng thời gian cho thấy FDI tại Việt Nam đang đi ngược chiều với xu hướng thế giới.

Sự tụt hạng đầu tư của Việt Nam ở châu Á cùng thời gian cũng chứng minh môi trường kinh doanh nước này đang mất điểm trong mắt giới đầu tư, so với nước cùng khu vực như Indonesia, tăng từ vị trí 21 lên 9 một cách ngoạn mục.

Vậy giới quan sát đang cho rằng những lí do chính nào ngoài lí do 'suy thoái kinh tế toàn cầu' được 'ưa chuộng' của chính phủ Việt Nam khiến giới đầu tư nước ngoài trở nên ngán ngẩm việc đầu tư ở Việt Nam đến vậy?

Đăng kí nhiều, không sử dụng hết

Thông số FDI được đăng kí tại Việt Nam, thường chênh lệch xa với lượng FDI được chính thức đưa vào sử dụng vì tốc độ giải ngân yếu kém.

Việc đưa vốn đầu tư vào chính thức sử dụng tại Việt Nam là một thử thách đối với tập đoàn nước ngoài (FIEs) vì các thủ tục giấy tờ cũng như các điều khoản qui định đầu tư rắc rối, không rõ ràng.

Các dự án lên đến hàng tỉ đôla thậm chí sau khi đã hoàn thành các thủ tục, vẫn phải đối mặt với công đoạn “khó nuốt nhất” của quy trình đầu tư: 'giải phóng mặt bằng', được quản lý bởi các chính quyền địa phương nghèo vốn.

Một ví dụ tiêu biểu trong thời gian gần đây nhất đó là dự án hợp tác đầu tư của tập đoàn thép Tata của Ấn Độ với Tập đoàn thép quốc gia Việt Nam.
"Doanh nghiệp Nhà Nước vẫn là nòng cốt của nền kinh tế trong chiến lược phát triển"
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Dự án 5 tỷ đô la đã phải nằm “bất động” trong bốn năm liền vì sự chậm chạp của tỉnh Hà Tĩnh trong việc giải phóng mặt bằng với lời bào chữa “không đủ ngân sách”.

Đây là lý do khiến phía Ấn Độ mất kiên nhẫn đến nỗi đích thân Thủ tướng Manmohan Singh phải “nhắc khéo” về dự án với Chủ tịch Trương Tấn Sang trong cuộc gặp năm 2011 tại New Dehi.

Kết quả là trong tháng 8, phía Việt Nam đã bắt Tata phải trích thêm một khoản 100 triệu đôla nữa để trả tiền giải phóng mặt bằng, gấp hơn ba lần so với 30 triệu đô la qui ước ban đầu, nhằm ‘thúc đẩy’ tiến trình dự án.

Lao động rẻ đã lỗi thời

Chủ tịch Trương Tấn Sang đã nhận được thông điệp từ Ấn Độ về vụ Tata đầu tư vào Hà Tĩnh

Kinh tế gia Raphael Cecchi của hãng phân tích đầu tư ONDD tại Bỉ nói trong một cuộc Bấm phỏng vấn với BBC rằng, một trong hai thế mạnh lớn nhất của Việt Nam đó là lực lượng lao động đông đảo với giá rẻ.
Tuy nhiên ngay cả ông và giới phân tích trên thế giới cũng thống nhất rằng, trước nhu cầu thị trường toàn cầu ngày càng tinh vi và thâm dụng vốn cũng như tốc độ tăng giá lao động trong nước nói riêng, thế mạnh này sẽ bị xói mòn rất nhanh.

Giới quan sát nói Việt Nam sẽ khó đón nhận những làn sóng FDI khổng lồ trong tương lai với đội ngũ lao động kém trình độ, chủ yếu bắt nguồn từ những bất cập trong nền giáo dục vốn thiếu sự tự do để cạnh tranh, chuyên môn hóa của nước này.

Một ví dụ cụ thể là vào năm 2011, Intel , hãng sản xuất chip điện tử hàng đầu của Mỹ, đã gặp trở ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam khi số công nhân đủ trình độ tuyển dụng chỉ bằng một phần nhỏ số lượng yêu cầu.
Hãng Intel vào thời điểm đó đã gạt qua một bên lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam, tuyên bố rằng đó không phải là điều họ tìm kiếm.

Trong những năm trước, khi giá lao động Trung Quốc tăng nhanh, nhiều ý kiến đã cho rằng Việt Nam sẽ là điểm dừng chân tiếp theo của những nhà đầu tư muốn hướng về Châu Á.

Cho tới nay, Trung Quốc, với giá lao động tối thiểu cao hơn Việt Nam rất nhiều, vẫn là điểm dừng chân hàng đầu cho các tập đoàn công nghệ khổng lồ của thế giới như Samsung, Apple nhờ những nỗ lực nâng cao chất lượng lao động.

Họ đã đưa đội ngũ lao động cao cấp lên làm nòng cốt cho nền kinh tế trong lúc vẫn đảm bảo giá cả, chất lượng và năng suất sản xuất ở mức cạnh tranh so với thị trường lao động quốc tế từ rất sớm.

Điện cúp, đường tắc

Chính phủ Việt Nan quyết tâm duy trì vị trí ưu thế về chính sách cho doanh nghiệp nhà nước

Bài viết của kinh tế gia Geoffrey Cain trên tờ Foreign Policy (FP) trong tháng 7/2012 có đoạn:”Việt Nam của năm 2012 là xứ sở mà chính phủ ra quyết định xây dựng các công trình cảng ở những nơi kì quái hoặc đường xá không có ý nghĩa kinh tế nào.”

Vấn đề cơ sở hạ tầng không được đầu tư đúng nơi, đúng lúc và đúng mức độ đang là vấn đề gây quan ngại với giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là khi vấn đề mất điện và giao thông đình trệ có những ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Nhiều năm qua, các doanh nghiệp đặt xưởng sản xuất tại Việt Nam liên tục kêu ca là 'chới với' vì không có điện để sản xuất, nhất là trong thời điểm mùa hè, dẫn đến thiệt hại về cả năng suất cũng như chi phí sản xuất.
Báo chí nêu như với Samsung, vụ mất điện 10 phút đã có thể biến các sản phẩm dang dở thành 'phế thải', gây tốn kém lên đến hàng chục triệu đô la.

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thì liên tục lên tiếng than lỗ vì thiếu nước, chi phí mua điện ngoài tăng cao, cũng như các nguồn điện chậm tiến độ như một phần các lí do cho vấn đề bất cập năng lượng.

Trong khi đó, EVN vẫn đầu tư vào các ngành không liên quan như ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản.

'Ngại' doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp Nhà Nước (DNNN), bị coi là trở ngại lớn nhất với sự phát triển của khu vực tư doanh, vốn được cho là nòng cốt và tương lai của nền kinh tế Việt Nam, mà còn là lá chắn nguồn FDI từ bên ngoài suốt nhiều năm qua.

Ngân hàng HSBC hôm 1/8 nói sai lầm lớn nhất của Việt Nam là tập trung 40% tổng sản lượng doanh thu quốc doanh (GDP) vào các tập đoàn nhà nước kém hiệu quả, tạo ảnh hưởng tiêu cực lên thị trường nhưng lại đòi hỏi sự hỗ trợ khổng lồ để tiếp tục tồn tại.

Các doanh nghiệp này, bị các nhà đầu tư lên án là với số vốn lớn mạnh đã ra sức thao túng vị trí 'đầu tàu của ngành', chiếm thế độc quyền bằng cách mở rộng đa ngành để tạo khó khăn cho việc thâm nhập thị trường của các tập đoàn nước ngoài, ảnh hưởng đến mức FDI tiềm năng đổ vào Việt Nam những năm qua.

Trong cùng bài trên FP, Geoffrey Cain viết về doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: "Họ thật là một đám phiền toái, chẳng ai (nhà đầu tư nước ngoài) muốn dính vào họ."

Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn tiếp tục khẳng định Doanh nghiệp Nhà Nước vẫn là nòng cốt của nền kinh tế trong chiến lược phát triển đất nước từ đây đến năm 2015.
"Họ thật là một đám phiền toái"
Geoffrey Cain
Có điều chính ông này là người bị dư luận lên án vì đã bỏ ngoài tai những cảnh báo của các chuyên gia về tác hại của mô hình DNNN nhiều năm trước khi Vinashin, Vinalines đổ vỡ.

Lạm phát: nỗi ám ảnh kinh hoàng

Lạm phát trong năm 2012 đã giảm xuống mức đáng kể, thế nhưng những dư âm và hậu quả của mức lạm phát lên đến 23% của năm 2011 vẫn còn tồn đọng trong nền kinh tế hiện tại và tâm lí các nhà đầu tư.
Một phần nguyên nhân cho tình trạng suy giảm lượng FDI trong năm 2012, đó là các biến động tâm lý của nhà đầu tư trong thời điểm một năm trước đó.

Trong bối cảnh lạm phát Việt Nam lên đến mức cao nhất Châu Á năm 2011, các khách hàng nước ngoài cũng như các công ty nước ngoài trở nên lãnh đạm hẳn với thị trường Việt Nam và tìm cách chuyển dần sang các nước lân cận trong suốt thời gian sau đó.

Nguyên nhân cho sự lãnh đạm đó là sự mất đi lợi thế cạnh tranh giá cả trong nước trước áp lực lạm phát khiến yêu cầu tăng lương của nhân viên, chi phí vật liệu, lãi suất cao ngất ngưởng và các ngân hàng đua nhau siết vốn.

Nguồn FDI vào ngành bất động sản trong cũng giảm xuống rõ rệt trước một thời gian dài chứng kiến sự sụp đổ của ngành này cùng những món nợ xấu còn tồn đọng ở thời điểm hiện tại.

Quan hệ VIệt Nhật

Những tiến triển trong quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước lân cận đang mở ra những nguồn FDI tiềm năng mới.

Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực rõ rệt trong việc hạ lạm phát, giới quan sát vẫn đang 'nín thở' theo dõi tốc độ giảm lãi suất của nước này bởi khả năng tái lạm phát nếu lãi suất được giàm không đúng mực.

Kinh tế gia Raphael Cecchni nhận đinh rằng, Việt Nam, trước nỗ lực giải quyết mức lạm phát đang phải hi sinh tăng trưởng thường niên và giá trị tiền đồng, vốn cũng là điều đang khiến các nhà đầu tư lo ngại rằng sẽ giảm độ hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam.

FDI sẽ quay trở lại ?

Các động thái của Nhà nước Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy nỗ lực của phía chính quyền trong việc tái khẳng định tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Giới phân tích cho rằng, nỗ lực rõ rệt nhất, đó là việc tái ổn định kinh tế vĩ mô, thắt chặt tín dụng và hạ mức lạm phát một cách quyết liệt kể từ Nghị Định số 11 năm 2011.

Các đề án tái cơ cấu ngân hàng cũng như Doanh nghiệp nhà nước của chính phủ Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đang được đánh giá là có những tác động tích cực lên tâm lí đầu tư nước ngoài.

Vấn đề giải ngân trong báo cáo của Cục thống kê cũng được các chuyên gia cho là tốt hơn so với cùng kì năm ngoái, chứng tỏ sự tiến bộ trong công tác quản lí nguồn FDI.

Sự gia tăng trong các mối quan hệ song phương gần đây giữa Việt Nam và các nước Nhật, Mỹ, Nga cũng được cho là đang mở đường cho những nguồn FDI đầy tiềm năng.

Tuy nhiên, có một điều mà giới quan sát đồng thuận, đó là Việt Nam cần quyết liệt hơn nữa trong việc giải quyết các vấn đề hiện hữu trong cơ cấu đã và đang khiến các khối đầu tư tỉ đô quay mặt đi.

.