Bao trùm toàn bộ nền kinh tế Việt Nam trong năm 2011 là câu chuyện về lạm phát. Trước bối cảnh lạm phát tăng tốc mạnh trong những tháng đầu năm 2011, Chính phủ đã ban hành nghị quyết 11 với mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định nền kinh tế.
Một loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ và cắt giảm đầu tư công đã được đưa ra.
Kết quả là con ngựa lạm phát đã được ghìm cương dù tính cả năm
vẫn ở mức cao nhất nhì thế giới, tới 18,13%. Tín hiệu đáng mừng là GDP
cả năm 2011 vẫn tăng 5,89%, cao hơn nhiều nước trong khu vực.
Doanh nghiệp khốn đốn
Lạm phát cao của Việt Nam năm 2011 được xem như
là hệ quả của những yếu kém nội tại của nền kinh tế. Đầu tư công dàn
trải, sự yếu kém của hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà
nước, đã khiến nền kinh tế phải sử dụng rất nhiều vốn, lên tới trên 40%
GDP, để duy trì được mức tăng trưởng trung bình trên 6,5% trong giai
đoạn 2006 – 2010. Do sử dụng vốn kém hiệu quả nên sau việc thực hiện gói
kích cầu 17.000 tỉ đồng để giúp nền kinh tế vượt qua giai đoạn suy giảm
vào năm 2009, kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng lạm phát cao từ
cuối năm 2010.
Để kiềm chế lạm phát, theo chỉ đạo của Chính phủ,
ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và
thận trọng trong cả năm 2011.
Theo chỉ thị 01 của NHNN, tốc độ tăng trưởng tín
dụng được giới hạn ở mức 20%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15
– 16%, tỷ lệ cho vay phi sản xuất (gồm bất động sản, chứng khoán, tiêu
dùng) trên tổng dư nợ phải giảm về mức 16% đến cuối năm 2011. Các hoạt
động đầu tư công cũng được rà soát lại và cắt giảm những khoản đầu tư
chưa cần thiết. Các tập đoàn, tổng công ty có hoạt động đầu tư ngoài
ngành buộc phải thoái vốn hết trước năm 2015 để tập trung cho các hoạt
động kinh doanh cốt lõi.
Sự thắt chặt về tín dụng và cắt giảm đầu tư công
đã khiến hầu hết các thị trường gặp khó khăn. Thị trường chứng khoán
liên tục suy giảm. Tính đến thời điểm 27.12.2011, VN-Index rơi xuống mức
346,48, giảm 28,59%; HNX Index còn 56,26 giảm 50,9%, thấp nhất trong
lịch sử. Khoảng 2/3 số công ty chứng khoán (CTCK) đã chịu thua lỗ trong
năm 2011. Các doanh nghiệp bất động sản cũng gặp không ít khó khăn khi
phải giảm giá bán các dự án chào bán, chuyển nhượng dự án. Số lượng
doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc phá sản lên tới hơn 50.000. Các doanh
nghiệp còn hoạt động phải đối mặt với tình trạng hàng tồn kho tăng cao,
không thể quay vòng được dòng vốn.
Khó khăn của khu vực doanh nghiệp khiến khu vực
ngân hàng cũng lâm vào tình trạng khó khăn. Nợ xấu của hệ thống ngân
hàng đã tăng lên mức 3,39%, cao hơn đáng kể so với mức 2,5% của năm
2010. Do khó khăn về thanh khoản, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã
phá rào thoả thuận lãi suất lên mức 17 – 19%/năm, buộc NHNN phải luật
hoá mức trần lãi suất huy động VND 14% vào đầu tháng 9.2011. Khi chính
sách áp trần lãi suất được áp dụng chặt chẽ, một số NHTM nhỏ đã không
thể trả được nợ đến hạn trên thị trường liên ngân hàng, dẫn đến tình
trạng để tiếp cận với các NHTM lớn trên thị trường liên ngân hàng, các
ngân hàng nhỏ buộc phải có tài sản thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ, trái
phiếu, hay tín dụng bất động sản tốt. Hệ quả là các NHTM nhỏ đã đua
nhau huy động các đồng ngoại tệ khác như EUR, AUD, CAD và vàng để có tài
sản thế chấp trên thị trường liên ngân hàng.
Thị trường vàng vẫn ngoài vòng kiểm soát
Chính sách tiền tệ thắt chặt đã khiến cho nền
kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng đã bước đầu đem lại những tín hiệu tích
cực. Chỉ số CPI trong các tháng cuối năm đều đã tăng ở mức dưới 1% và
xu hướng CPI tính theo năm đang giảm dần từ mức trên 20% còn 18,13%/năm.
Về cuối năm, lãi suất cho vay của các NHTM đã có xu hướng giảm. Lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng đã không còn cao.
Thành công nhất của chính sách tiền tệ năm 2011
có lẽ là chính sách tỷ giá. Nhờ mặt bằng lãi suất huy động VND được duy
trì ở mức cao trong khi lãi suất huy động USD bị áp trần ở mức thấp nên
tỷ giá đã được giữ ở mức tương đối ổn định sau khi tỷ giá USD/VND bị phá
giá mạnh lên tới hơn 9% vào đầu năm. Tuy nhiên, đã có nhiều thời điểm
trong năm, đặc biệt là những tháng đầu và cuối năm 2011, tỷ giá thực tế
nhiều lúc đã vượt trần khá nhiều. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này
được quy cho là do đầu cơ vàng.
Bất chấp nhiều chính sách về vàng như cho phép
một số ngân hàng thương mại được tham gia bán vàng bình ổn, dự định lấy
SJC làm thương hiệu vàng miếng quốc gia, v.v... giá vàng trong nước liên
tục giữ ở mức cao hơn giá vàng thế giới từ 1 – 2 triệu đồng. Sự chênh
lệch lớn giữa giá vàng trong nước và ngoài nước đã khiến cho giới đầu cơ
vàng tìm cách gom USD để nhập lậu vàng, gây căng thẳng tỷ giá.
Khởi động quá trình tái cơ cấu nền kinh tế
Song song với các chính sách tiền tệ và tài khoá,
Chính phủ đã thông qua chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế trên ba
phương diện: tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc thị trường tài
chính, và tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Mặc dù việc
triển khai những nội dung tái cấu trúc này sẽ được thực hiện chủ yếu
trong các năm sau nhưng ngay trong năm 2011, Chính phủ cũng đã tiến hành
một số hoạt động có tính khởi động.
Cụ thể, với vấn đề tái cấu trúc đầu tư công,
Chính phủ đã đẩy mạnh việc thi công nhiều công trình quan trọng như hoàn
thành hầm Thủ Thiêm và cảng hàng không quốc tế sân bay Đà Nẵng. Với vấn
đề tái cấu trúc lại thị trường tài chính, NHNN đã có nhiều động thái
tác động trong việc hợp nhất ba ngân hàng cổ phần Sài Gòn, ngân hàng Đệ
Nhất và Việt Nam Tín Nghĩa. BIDV là ngân hàng được chỉ định để hỗ trợ
ngân hàng SCB mới hợp nhất. Bản thân BIDV cũng là ngân hàng tiếp theo
được thực hiện IPO trong những ngày cuối tháng 12.2011 và dự kiến sẽ
được niêm yết vào giữa tháng 6.2012. Và với vấn đề tái cấu trúc hệ thống
DNNN, những động thái kiểm toán và công khai hoạt động kinh doanh của
các tập đoàn như EVN và Petrolimex phần nào thể hiện Chính phủ sẽ quyết
tâm thực hiện chủ trương này trong các năm tiếp theo.
Năm 2012: tỷ giá là một ẩn số
Trong khi lạm phát có thể không còn là câu chuyện
chính yếu của năm 2012, thì tỷ giá lại có thể lại là nhân vật chính.
Với việc tiếp tục chính sách tiền tệ chặt chẽ và cắt giảm đầu tư công
như năm 2011, kỳ vọng về một mức lạm phát khoảng 10% vào cuối năm 2012
là hoàn toàn có thể.
Nhưng câu chuyện tỷ giá lại khác. Bối cảnh thế
giới năm 2012 vẫn chưa có dấu hiệu sáng sủa. Châu Âu tiếp tục phải đối
phó với cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng lan rộng. Nền kinh tế Mỹ vẫn
chưa thực sự phục hồi, trong khi mùa bầu cử mới lại bắt đầu khiến cho
các chính sách khó có thể được nhanh chóng thông qua. Nền kinh tế Trung
Quốc có thể sẽ phải đối mặt với một giai đoạn bất ổn khi giá nhà đất
quay đầu sụt giảm và hệ thống ngân hàng chịu áp lực lớn về tình trạng nợ
xấu gia tăng. Bất ổn kinh tế thế giới chắc chắn khiến giá vàng tiếp tục
nhảy múa. Và vì tỷ giá USD/VND vẫn phụ thuộc vào giá vàng nhiều như
hiện nay, thì việc điều hành chính sách tỷ giá chắc chắn vẫn tiếp tục bị
động.
Khó khăn của kinh tế thế giới sẽ khiến cho dòng
vốn quốc tế đầu tư vào Việt Nam có thể sụt giảm. Xuất khẩu khó có thể
giữ được mức tăng trưởng cao như năm nay. Hơn nữa, nguy cơ các quỹ đầu
tư nước ngoài, với danh mục chứng khoán lên tới 7 tỉ USD, rút vốn trong
năm 2012 là rất lớn. Đây sẽ là những áp lực chính đối với cán cân thanh
toán của Việt Nam trong năm sau. Hơn nữa, với việc lãi suất huy động VND
có xu hướng giảm dần về mức dưới 10% theo đà giảm của lạm phát, việc
găm giữ ngoại tệ sẽ trở nên hấp dẫn hơn. Với tất cả những khía cạnh
trên, tỷ giá sẽ trở thành tâm điểm trong năm 2012 bên cạnh các nội dung
tái cấu trúc nền kinh tế.
Nguyễn Minh Cường
SGTT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét